
Giá trị chẩn đoán- tiên lượng của 3 hệ thống kháng nguyên - kháng thể viêm gan B p3
Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014
a. Hệ thống kháng nguyên - kháng thể e (HBeAg - HBeAb):
Các hệ thống kháng nguyên - kháng thể bề mặt và nhân chủ ỵếu nói lên đã nhiễm hoặc hiện diện của virus, phản ảnh diễn biến và mức độ bệnh. Trọng khi đồ hệ thống kháng nguyên - kháng thể e có giầ trị tiên lượng lâu dài, cho phép xác định nguy cơ mạn tính lioá, khẳ năng lấy nhiễm khi mắc viêm gan B cấp cũng như chẩn đoán phân biệt người lành mang khuẩn và ngưòí mắc viêm gan mạn tiến triển.-Sheikh và cs [152] không thấy'HBeAg ỏ ngưòi lành mang khuẩn song hiếm ỏ viêm gan mạn tồn tại, phổ biến ồ viêm gan mạn hoạt động, sự có mặt của nó là biểu hiện của bệnh viêm gan mạn. Eleftheriou [55] thấy HBeAg liên quan chặt chẽ vối bệnh gan tiến triển, còn HBeAb liên quan vối trạng thái mang khuẩn lành và sự ngừng phát triển của bệnh. Trepo [176] gặp HBeAg ở nửa sô' bệnh nhân thẩm phấìi máu hoặc bệnh nhân viêm gan mạn, dưới 2% những ngưòi mang kháng nguyên không triệu chứng, trong khi đó HBeAb không eó mặt ỗ nhóm bệnh thứ nhất, gặp ở 60% ỏ nhóm bệnh thứ hai.
Trong viêm gan cấp biếm gặp kháng nguyên e, song nếu dương tính phải coi chừng bệnh trỏ thành mạn tính, kháng thể e cũng hiếm, nếu xuất hiện thường ăn nhịp vối sự biến mất của kháng nguyên và bệnh khỏLi.
HBeAg còn phẩn ảnh tính lây nhiễm của bệnỉi. Trong sản khoa thấy 85% phụ nữ chưa bị bệnh mang HBsAg kèm kháng nguyên e lây cho trẻ sơ sinh, trong khi những người có kháng thể e không truyền bệnh cho con (Beasley và cs [17, 18]).
Trong viêm gan B cấp HBeAb là kháng thể xuất hiện sóm thứ hai sau kháng thể c. HBeAb thường xuất hiện vào giai đoạn cuối của viêm gan B cấp và tồn tại lâu dài thường tới 1 - 2 năm sau viêm gan đã hồi phục. HBeAg dương tính chứng tỏ nhiêm trùng ở giai đoạn sớm và đang hoạt động mạnh, khi xuất hiện HBeAb là nhiễm trung đang thòi kỳ thoái lui. Sự chuyển đảo huyết thanh từ HBeAg thành HBeAb thường diễn ra vào cao điểm của bệnh và dấu hiệu tiên lửợng tốt nóí lên có sự đáp ứng miễn dịch và bệnh không trở thành mạn tính.
HBeAb hiếm gập ỏ viêm gan mạn hoạt động, ỏ người mang HBsÁg không triệu chứng nếu có HBeẤb thì HBsAg có hiệu giá thấp và không thấy hoạt tính DNA- polymerase.
Qua các nghiên cứu sản khoa [128, 17, 18] về lây truyền dọc từ mẹ sang con ỏ những bà mẹ mang HBsAg mạn tính không triệu chứng cho thấy: nhóm các bà mẹ có HBeAg(+) lây cho con, ngược lại nhóm bà mẹ có HBeAb(+) thì không có trưòng hợp nào. Đinh Thị Bình [26] thấy tỷ lệ HBsAg (+) trong máu trẻ sinh ra từ các bà mẹ HBsAg(+) là 23,6%, tỷ lệ HBeAg(+) 17,1% và tỷ lệ HBeAb(+) 52,9%. Trong đó nhóm con các bà mẹ có 2 dấu ấn HBsAg(+) và HBeAg(+) tỷ lệ trong máu rốn là 66,7% (24/36). Ngược lại nhóm con các bà mẹ có HBsAg(+) và HBeAb(+) chỉ là 7,6% (6/79). Tác giả cũng thấy 91,4% (74/81) có HBeAb trong máu rôn trẻ sơ sinh của các bà mẹ có HBeAb(+).
Trong viêm gan mạn hoạt động thường có HBsAg(+) và HBeAg(+) chứng tỏ virus nhân lên và bệnh tiến triển. Trong quá trình điều trị thấy HBeAb(+) kết hợp với âm tính hoá của HBeAg tức là có chuyển đảo huyết thanh và men gan trở lại bình thường chứng tỏ bệnh ổn định và tiên lượng tốt (Bảng 5).
Đọc thêm tại: http://phongbenhgan.blogspot.com/2014/08/su-ot-nhap-va-su-nhan-len-cua-hbv-trong.html
Từ khóa tìm kiếm nhiều: triệu chứng của bệnh gan, bệnh
viêm gan B lây qua đường nào
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét