Viêm gan virus mạn tính- định nghĩa và phân loại
Thứ Tư, 3 tháng 9, 2014
1. ĐỊNH NGHĨA
Khi một viêm gan virus kéo dài trên 6 tháng được gọi là viêm gan mạn tính (VGM).
Chẩn đoán được xác định dựa vào kiểm tra mô học thấy tổn thương gan với các mức độ khác nhau tuỳ theo giai đoạn và độ hoạt động, bao gồm thoái hoá, hoại tử tế bào gan đi kèm vói thâm nhiễm viêm chủ yếu là các tế bào đơn nhân và sinh xơ (fibrosis).
Khác với xơ gan (cirrhosis) là ở VGM tổn thương gan tuy có, song cấu trúc của tiểu thuỳ gan về cơ bản còn được bảo toàn, chưa thành lập các cục tái tạo và có khả năng phục hồi về bình thường được.
VGM khác vối xơ gan (XG) song khuynh hướng phát triển thành xơ gan và mốỉ hiểm hoạ quan trọng là ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Do đó chẩn đoán sớm, điều trị kịp thòi là quan trọng trước khi hình thành xơ gan [12,13,11].
2. PHÂN LOẠI
2.1. Theo căn nguyên: Có 3 căn nguyên chính có thể gây VGM
a. VGM tự miễn (Còn gọi là viêm gan dạng ban đỏ): Đặc biệt hay gặp ỏ phụ nữ nhiều hơn nam giới, dưới hình thái viêm gan mạn hoạt động (VGMHĐ), trong huyết thanh có các tự kháng thể đặc biệt các tự kháng thể kháng nhân (ANA), kháng thể kháng cơ trơn (SMA), v.v... Bệnh nhân trong tiền sử không có viêm gan cấp, các marker VGB, VGC, v.v. âm tính. Bệnh nhân hay có những bệnh tự miễn khác đi kèm [4].
b. VGM do thuốc: Nhiều thuổc có thể gây VGM, thậm chí XG. Đa phần là những thuôc dùng kéo dài gây hoại tử tế bào gan. Thoạt kỳ thuỷ chúng gây ra bệnh cảnh viêm gan không có biểu hiện lâm sàng, một thòi gian dài bệnh bị bỏ qua, khi nặng mới tìm được nguyên nhân. Cá biệt bệnh đựợc phát hiện, thuốc được ngừng ngay, bệnh tạm đố song tiếp diễn.
Nhiều thuốc có thể gây viêm gan: Amodiaquín, Halothane, isoniazỉde, Methotrexat, Methyldopa, nitroíurantoine, v.v... kể cả thuốc y học cổ truyền [6] Ị\
c. VGM do các virus viêm gan hầu hết là do HBV, HBV phốỉ hợp HDV và HCV. Phần dưói sẽ đề cập tiếp [13, 15, 17].
2.2. Theo thể bệnh
Từ 1968 De Groote, Thaler và cộng ồự [4] đẵ tiêu chuẩn hoá định nghĩa và đơn giản hoá thuật ngữ VGM. Sự phân loại được xây dựng dựa vào những biểu hiện bệnh lý song cũng hàm ý cả lâm sàng và tiên lượng chia 2 thể chính: viêm gan mạn tính tồn tại (chronic persistent hepatitis) và viêm gan mạn hoạt động (chrònic active hepatitis). Sãu đó ngưòi ta đã bổ sung thêm một sô' thể bệnh là VGM tiểu thuỳ (chronic lobular hepátitis) và VGM phản ứng không đặc hiệu (chronic reactive non specific hepatitis). Các thể bệnh này có cùng chung những yếu tô" tổn thương giải phẫu bệnh và có thể cả nguyên nhân nhưng mỗi thể có cơ chế bệnh, biểu hiên lẩm sàng, tiến triển và điều trị khác nhau
Đọc thêm tại: http://phongbenhgan.blogspot.com/2014/09/viem-gan-virus-man-tinh-inh-nghia-va_3.html
Từ khóa tìm kiếm nhiều: trieu chung viem gan, benh
viem gan b lay qua duong nao
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét