Sinh bệnh lý trong viêm gan B
Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014
Viêm gan virus B là một bệnh nhiễm virus toàn thân thể hiện lâm sàng bằng hội chững nhỉẽm độc và viêm gan dưới nhiều hình thức phong phú, mức độ khác nhau. Bệnh có thể xẩy ra dưối thể ẩn, diễn biến nhẹ, thể không hoàng đản, thể điển hình kèm hoàng đản, thể kịch phát rất nặng có thể gây tử vong. HBV còn thể gây ra viêm gan mạn tồn tại thường lành tình, hoặc viêm gan mạn tấn công còn gọi là viêm gan mạn xâm thực nặng h,ơn dẫn đến xơ gan, ung thư gan. Song không nhất thiết cứ nhiễm HBV là mẳc bệnh, nhiều khi chỉ là tình trạng mang HBsAg không triệu chứng. Tình trạng mang kháng nguyên có khi chỉ là nhất thời, song có thể mạn tính, có thể kéo dài trên 20 năm, thậm chí suốt đời không có biểu hiện lâm sàng, thay đổi hoá sinh, thậm chí cả mô học..
Cái gì quyết định sau nhiễm HBV: bệnh diễn ra dưới thể này hoặc thể khác, quyết định mức độ tổri thương, diễn biếri bệnh? Do bản thân virus hoặc do cơ thể người bệnh?
Việc phát hiện HBV đã tạo ra bưổc ngòặt lớn nghiên cứu lâm sàng vằ sinh bệnh học viêm gan, trả lòi những câu hỏi trên. Tất nhiên bản thân HBV đống vai trò quan trọng, không nhiễm nó thì không mắc viêm gan, song đơn phương sự có mặt của virus không thể giải thích đủ những diễn biến phức tạp của bệnh.
1.1. Vai trò của virus
a. Chủng loại virus
Nielsen và cs [122], Skinhoj (1972) thấy ỏ viêm gan B cấp và mạn nhóm y chiếm ưu thế, còn ở xơ gan và những người mang khuẩn lành nhóm d phổ biến nhất. Prince [140] thấy thứ nhóm y trong 55% viêm gan sau truyền máu và 100% viêm gan tối cấp. Iwarson và cs [89] thông báo tình trạng mang đ thường là không có triệu chứng, trong khi gần 705 ngưòi mang y có tổn thương gan mạn.
Ngược lại sau đó Zuckerman và cs [186] thấy thứ nhóm d phổ biến hơn trong viêm gan mạn. Ở Hungary cũng thấy nhiều ý kiến trái ngược. Buki và cs [37] thấy ở viêm gan cấp tỷ lệ y và d gần bằng nhau, tuy nhiên y phổ biến hơn ỏ những ngưòi mắc thể nặng có hoàng đản, nhất là ở viêm gan mạn. Ngược lại Halmosdi [78] khẳng định mức độ bệnh trong viêm gan cấp, trạng thái mang khuẩn kéo dài và viêm gan mạn không liên quan gì với chủng virus. Thamer và cs [170] nghiên cứu lâm sàng viêm gan cấp cũng không thấy có gì khác nhau giữa nhóm d và y.
b. Lượng virus trong cơ thể
Theo Dudley và cs [52, 53, 54] mật độ virus trong máu cao nhất ỏ những người mang kháng nguyên chức năng gan bình thường, vừa ỏ những bênh nhân viêm gan mạn tồn tại và thấp nhất ỏ viêm gan mạn tấn công. Elling và cs [56] kiểm tra kháng nguyên thêo phương pháp Laurell [103] cũng nhấn mạnh quan sát của Dudley.
Kiểm tra sự phân bỄÍ của virus trong mô gan Nowolawski và cs [126, 127] thấy mức độ tổn thương tế bào gan tỷ lệ nghịch vói mức độ kháng ngúyên. Ray và cs [142, 143] bằng phương pháp huỳnh quang gián tiếp cũng thấy mức độ tổn thương tế bào gan tỷ lệ nghịch vói sô' lượng tế bào chứa virus.
Mật độ virus trong mô gan, sự phân bô' của chúng trên bề mặt, trong bào tương cũng như trong nhân tế bào gan có quan hệ chặt chẽ với sự đáp ứng miễn dịch của cơ thể [127, 23,142,130].
Tóm lại HBV đóng vai trò quan trọng, song không phải chỉ riêng chúng cũng như sô' lượng của chúng mà là trạng thái đáp ứng miễn dịch của ngưòi bệnh quyết định mọi diễn biến của bệnh.
Đọc thêm tại: http://phongbenhgan.blogspot.com/2014/08/sinh-benh-ly-trong-viem-gan-b-p2.html
Từ khóa tìm kiếm nhiều: trieu chung viem gan, benh
viem gan b lay qua duong nao
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét